Kết quả thực nghiệm - Yếu tố không thể tách rời trong tranh luận

Đọc qua một số tranh luận trong box phổ thông gần đây, tui có ý kiến nhỏ sau: Điều ngộ nhận hay xảy ra đối với các bạn ở mức độ phổ thông cũng như đại học là nghe cái gì đó có lý thì hay lấy chúng làm chân lý để giải thích cho mọi phản ứng tuơng tự khác mà quên không đọc kỹ điều kiện thực nghiệm cụ thể như tác chất, chất nền, xúc tác, nhiệt độ, dung môi, thời gian phản ứng đã thay đổi như thế nào. Ngoại trừ bom mìn:xuong (, một chìa khóa không thể mở được mọi ổ khóa ngay cả khi đó là chìa khóa vạn năng (master key) cũng chỉ mở được một số ổ khóa nhất định mà thôi. Như tui vẫn hay thường khuyến cáo trong hóa học một lý thuyết không áp dụng được cho tất cả các trường hợp và luôn có xuất hiện của lý thuyết mới ví dụ như: trong cộng thân hach vào nối đôi carbonyl C=O có quy tăc Cram >< quy tắc Felkin-Anh, chelation,v.v.; trong phản ứng Diels-Alder có supra facial addition >< antara facial addition; trong cộng thân điện tử vào nối đôi C=C quy tắc Markovnikov >< quy tắc anti-Markovnikov; kinetic product >< thermodynamic product,…

Ví dụ trong phản ứng cộng anti Markovnikov vào nối đôi C=C theo quy tắc Kharasch (Morris Selig Kharasch 1895-1957) http://en.wikipedia.org/wiki/Morris_S._Kharasch. Nói đến quy tắc Kharasch phải sử dụng peroxide để làm xúc tác thế là hầu hết các bạn đều gán ghép peroxide đó là H2O2! Thật ra đó là ROOR peroxide. http://en.wikipedia.org/wiki/Peroxide Điều ngộ nhận nữa là nếu phải làm bài tập tổng hợp hữu cơ trên giấy, để điều chế sản phẩm cộng anti-Markovnikov, các bạn đều dùng ngay nguyên tắc Kharasch cho tất cả HX mà quên rằng quy tắc Kharasch chỉ áp dụng được cho cộng HBr vào nối đôi C=C khi có sự hiện diện của peroxide ROOR. Còn HF, HCl và HI luôn tuân theo quy tắc Markonikov dù có hay không có sự hiện diện của peroxide ROOR.

Nếu phải điều dẫn xuất alkyl bromide theo quy tắc anti-Markovnikov từ alkene trên giấy, 99.9% các bạn ở bậc phổ thông và đại học đều dùng quy tắc Kharash, xin thưa điều đó chỉ đúng ở lượng hóa chất rất nhỏ và chấp nhận ở khía cạnh hóa lý thuyết mà thôi để làm bài kiểm tra hay bài thi mà thôi. Với lượng lớn HBr và alkene dù có ROOR, sản phẩm cộng chính sẽ vẫn theo quy tắc Markovnikov. Để điều chế sản phẩm cộng HBr anti-Markovnikov, trước tiên alkene R-CH=CH2 sẽ được chuyển thành alcohol R-CH2-CH2OH (anti-Markovnikov) bằng phản ứng với các hợp chất borane, và tiếp tục chuyển R-CH2CH2OH thu được thành thành R-CH2CH2Br với PBr3, CBr4/PPh3, …

Ví dụ khác trong cạnh tranh giữa việc tạo thành sản phẩm động học-sản phẩm tạo thành nhanh (kinetic product) và nhiệt động học-sản phẩm bền (thermodynamic product), các bạn cứ luôn nghĩ trong đầu nhiệt độ phải thật thấp như – 80 oC cho mọi trường hợp. Điều này hoàn toàn không đúng. Với mỗi chất nền (substrate) và tác chất (reagent), dung môi, xúc tác cụ thể điều kiện nhiệt độ cũng thay đổi rất nhiều. - 80oC có thể dúng với phản ứng này nhưng lại không cho kết quả tuơng tự trong phản ứng khác. Nên không thể khẳn định phải là -80 hay -40 oC, chính vì vậy tui mới nói thường nhỏ hơn -40 oC (<-40 oC) là vậy trong bài viết về cộng 1,2 >< cộng 1,4!

Ví dụ trong phản ứng cộng Michael vào keton tiếp cách có những trường hợp sản phẩm động học tạo ra ở 0 oC và sản phẩm nhiệt động học tạo ra ở nhiệt độ phòng hay cao hơn nữa. Ở nhiệt độ thấp quá., chỉ có chút xíu sản phẩm động học sinh ra mà thôi. Ở khoảng nào đó sẽ có cả hai loại sản phẩm tạo thành theo tỉ lệ nào đó. Ở nhiệt độ cao hơn chủ yếu là sản phẩm nhiệt động học nhưng vẫn có sự tạo thành sản phẩm phụ động học. Ngoài ra nói đến phản ứng cộng 1,2 >< cộng 1,4, các bạn hay chú ý đến cộng vào alkadiene tiếp cách (cộng thân điện tử) mà hay quên phản ứng cộng Michael (cộng thân hạch) vào alpha,beta-ketone tiếp cách.

Nói chung, lý thuyết sẽ trở nên vững vàng hơn nhiều nếu bạn thực sự đã làm rất nhiều thực nghiệm và nếu chưa có điều kiện để làm thật nhiều thực nghiệm thì hãy cố gắng đọc thật nhiều và nên cô gắng đọc thật nhiều tài liệu chuyên ngành bằng tiếng Anh ngay từ khi bắt đầu bước chân vào đại học.

Nếu so sánh giữa sách tiếng Anh và tiếng Việt, các bạn sẽ thấy hiện tượng hay xảy ra ở sách tiếng Việt là kiến thức hay bị cắt khúc, không liên tục, dịch không hết chưa kể đôi lúc dịch sai nữa. Dùng từ viết sách chuyên ngành Hóa ở VN thật ra chỉ lả sưu tầm và dịch lại mà thôi. Không biết các ngành khác thế nào, chứ về Hóa Hữu cơ cho mức độ ĐH, chủ quan đánh giá tui chưa thấy có cuốn tiếng Việt nào xứng tầm như nhiều cuốn Hóa Hữu cơ bằng tiếng Anh các bạn hay post trên diễn đàn như của Boyd-Morrion, Clayden, Bruce, H.C. Brown, Solomon, Wade,…và rất nhiều tác giả khác. Chưa nói đến sách ở mức độ sau đại học, mức độ khác biệt càng nhiều!

Nếu các bạn có dịp đọc qua sách các nước Bắc Mỹ dùng cho mức độ phổ thông sẽ thấy, nặng hơn chương trình của sách VN nhiều về kiến thức tổng quát, ví dụ thực tế giữa liên quan đến đời sống và hóa học, khoa học và những bài tập về tính toán công thức phân tử,… họ cho ra rất dễ và nhẹ nhàng trong khi bên mình lấy Toán trong Hóa làm chính, và đủ thứ gài bẫy câu chữ ở trong đó rồi tấm tắc khen là đề hay mới chết chứ! May mà gần đây nhờ Bộ GD-ĐT tập trung ra đề nên Hóa đang lấy lại vị thế của mình trong đề thi. Câu hỏi ra thi trắc nghiệm của họ cũng rất rõ ràng, lâu nay tui không kèm cho học sinh cấp ba nữa nên đã bỏ hết mấy tài liệu đo sau những lần chuyển nhà từ nước này sang nước khác.

Hi! Ủng hộ hoàn toàn ý kiến của scooby-doo. Đừng nói đến tài liệu ĐH hay các lập luận suông tai, hiện tại khi đọc bất kỳ tài liệu nào cũng vậy. HIc, mình theo dõi bài báo, rồi làm lại theo protocol, hiếm hoi lắm mới có kq tương tự. Ngay từ hồi học cấp III mình đã rất ghét các loại bài tập dạng TOÁN hóa HÓA HỌC mặc dù đó là các bài mình làm ok nhất (do cấp II học chuyên TOÁN mà). Rất mong các bạn viết những bài như Scooby Doo để các em PT được định hướng đúng đắn, chứ cứ như vậy, thật phí thời gian và chất xám quá Thân

Bản thân em cũng đọc qua nhiều bài báo, và làm thực nghiệm theo y hệt protocol được đề xuất, thế nhưng rất ít khi ra được kết quả như trong bài báo ! Đôi khi còn thấy có nhiều bài báo dựa vào những kết quả thực nghiệm không đóng vai trò quan trọng, để đưa ra một kết luận … to tát. hix ! Điều này gặp nhiều ở các article của đa số trường ĐH ở Trung Quốc (theo mảng đề tài của em). Em đang thắc mắc là mỗi tạp chí luôn có một bộ phận test and comment, vậy sao vẫn có rất nhiều những bài báo như trên. Phải chăng yếu tố “nổi tiếng” của Prof - group manager đóng một phần quyết định rất lớn đến việc … có bài báo đăng trên tạp chí quốc tế hay không !!!

Em thích đọc các bài báo được collect trong ACS (American chemical society) database hơn, có lẽ phù hợp với lối lập luận mang style of American.

Tóm lại, em chỉ muốn nói bổ sung thêm vào tên của topic này, “Kết quả thực nghiệm, yếu tố không thể tách rời khi tranh luận”, và cần phải đủ tỉnh táo cũng như kinh nghiệm (điều này có lẽ không dễ có được) để nhận ra, dựa vào kết quả thực nghiệm ấy có thực sự đủ làm nền tảng cho lập luận của mình chưa.! :quyet (

Để tái lập lại một kết quả thực nghiệm theo mô tả trên bài báo là rất khó. Giả sử rằng kết quả này là không do ngụy tạo thì điều kiện làm thí nghiệm của mình rất khó giống hoàn toàn với người ta nên kết quả đôi khi không phù hợp. (Ví dụ như dung môi hay tác chất mua của các hãng khác nhau thì sẽ khác nhau cho dù chúng cùng một mục đích sử dụng. Một bài báo làm thực nghiệm ở Mỹ dùng hóa chất của hãng Aldrich, nếu ai đó muốn tái lập kết quả thực nghiệm này ở châu Âu nhưng dùng hàng của Prolabo, LabScan hay Merck thì chắc chắn là tác chất có thay đổi ít nhiều. Ngay cả hàng của một hãng cũng không thể giống nhau hoàn toàn vì các hãng này có các nhà máy ở các nước khác nhau, chất lượng khó mà đồng điều). Ngoài ra còn có các yếu tố khác mà ít khi được để ý tới như độ ẩm không khí, thứ tự cho tác chất, dạng thù hình của tác chất khi cho vào, phản ứng có tiếp xúc với không khí hay không, phản ứng có được/bị chiếu sáng bởi đèn lab hay ánh sáng tự nhiên hay không, thời gian sau khi kết thúc phản ứng đến lúc phân tích mẫu là bao lâu, mẫu được bảo quản như thế nào, các máy đo, phân tích của các hãng khác nhau có thể cho kết quả không giống nhau hoàn toàn 100%.v.v. Nếu kể tác động của các yếu tố này thì ta sẽ thấy điều kiện thực nghiệm khó mà lặp lại hoàn toàn.

Nếu không lặp lại được kết quả thực nghiệm thì nên mail trực tiếp, trao đổi với tác giả bài báo ấy, nếu tác giả là nhà khoa học thực thụ thì ông ta sẽ giúp mình thôi. Khi làm thực nghiệm mình thường tuân thủ các điều sau: ghi chép tỉ mĩ điều kiện & phương pháp thí nghiệm, kết quả được lặp lại ít nhất 1 lần (nếu làm siêng và hóa chất rẻ thì làm thêm một lần nữa), thảo luận với GS về kết quả và so sánh với các kết quả của các tác giả khác.

Để phản biện một bài báo thì người ta chỉ căn cứ vào báo cáo thực nghiệm của tác giả chứ không làm test lại thực nghiệm, nếu có chổ nào không rõ thì reference sẽ mail cho tác giả. Thông thường, khi đăng báo, bài báo phải được submit 2 phần, phần supplement mô tả chi tiết thực nghiệm, cách xử lý số liệu và phần fulltext như chúng ta đọc. Các tạp chí nổi tiếng (High Impact, ACS là rất tốt) thường có độ tin cậy cao, và bài của giáo sư nổi tiếng cũng thường được accept. Do vậy mới có chuyện ông GS Hàn Quốc đăng bài bậy trên Nature. Mà nhiều khi reference cũng đọc bài qua loa lắm, như ông Einstein, không biết đọc mấy cái patent thế nào mà ngồi mộng mơ ra thuyết tương đối. Cái này nói đùa thôi.

mình cũng đồng ý với Scoo nhưng đâu phải ai cũng có điều kiện làm thực nghiệm, chưa kể đến tài liệu của chúng ta chưa xứng tầm và điểm yếu nữa là trình độ TAnh của HS, Sv không đủ để đọc sách nước ngoài một cách đúng nghĩa được vì vậy phiến diện trong cách nắm bắt và suy nghĩ là điều quá dễ hiểu thôi

Em xin phép hỏi kinh nghiệm của các anh chị về 1 vấn đề hơi ngoài lề 1 chút. Số là em đang làm 1 phản ứng mô phỏng lại theo 1 bài báo. Nhưng bài báo đó ông giáo sư Trung Quốc đã làm cách đây 9 năm rồi (1999). Em có email hỏi ổng cách làm như thế nào thì bặt vô âm tín. Em cũng kiên nhẫn gửi 2-3 lần nhưng vẫn không được hồi âm. Em nghĩ có lẽ thời gian lâu rồi nên ổng cũng quên cách làm, mặc dù ông này khá nổi tiếng, cũng có nhiều bài trên Sciendirect. Bài báo em đang tham khảo của ổng chỉ là 1 bài nhỏ, mà ổng cũng lớn tuổi rồi (sinh năm 1933), nên em sợ nhiều khi ổng cũng khó tính, không reply mail gửi bằng yahoo hoặc …:die ( Vì thế trong những trường hợp này, khi không thể mô phỏng lại điều kiện thực nghiệm theo bài báo thì ta nên làm gì?

Tui cũng đang ỡ trong trường hợp giống tiger nè…hix hix…Mail hỏi mấy ông GS-TS ở Hàn mà bao đợt thư đi ko 1 lần đáp lại…hix hix…(tuy cái tui cần làm chỉ là về lý thuyết thôi :slight_smile: ) Không phài nói xấu các vị ấy nhưng chuyện hỏi họ chỉ cho mình tường tận các yếu tố thực nghiệm thì tui e rằng hơi khó đó nha :mohoi (. Không phải vị nào cũng đủ tốt bụng để send cho ta thành quả mà họ dày công nghiên cứu hết, ngay cả các bài đã chìm sâu vào lãng quên cũng thế thôi ah. Tui nghe nói (mà tui nghĩ cũng đúng :mohoi () các bài báo cho dù có đăng hết tất cả các tiến trình thí nghiệm thì họ cũng sẽ dấu lại 1 vài chiêu, 1 vài phụ gia quan trọng mà thôi, chả ai đăng hết cả. Ngay cả đến các hãng thuốc cũng vậy, họ nêu ra đầy đủ thành phần nhưng phần tá dược họ có nêu đâu?! Nếu có thì cũng nêu qua loa cho có thui, chẳng ai dại gì nêu hết cả. Trong công nghiệp thì bí mật là yếu tố quyết định đến thành công của nhà sản xuất mà :cuoi (

Thành thật chia buồn với hai bạn, nếu mình bị như vậy mình cũng sẽ không hài lòng với ông giáo sư ấy. Bạn thử tìm tên ông ấy rồi tìm nhóm nghiên cứu và mail cho các đồng nghiệp hay học trò của ổng, nói chung là đừng chịu bó tay. Bạn thử tìm theo tên giáo sư đó xem ổng có còn paper nào sau bài báo 1999 không, nếu không thì chắc là ổng không làm nữa. Tìm các tác giả liên quan, xem thử các tác giả đó có bài báo nào phát triển theo hướng thực nghiệm đó không. Đôi khi cũng phải thông cảm cho các giáo sư, nhiều lúc không thể trả lời mail hết được. Là nhà khoa học chân chính thì không nên giấu bất cứ điều gì, cái này tùy ở mổi con người thôi. Các giáo sư mà mình may mắn gặp lúc nào cũng chỉ cho mình rất tường tận thực nghiệm, chậm chí còn hổ trợ trang thiết bị và sách vở cho mình, bàn luận về những project đang làm, nói chung là không giấu thứ gì. Các kiểu giáo sư khác thì mình ít gặp. Công bố kết quả khoa học trên các tạp chí khoa học và bảo mật bí quyết trong kinh doanh, sản xuất là 2 vấn đề khác nhau hoàn toàn, không thể so sánh được.

Hi! Trời, mấy vụ này phải khôn khéo một chút. Thứ 1, mấy ông GS hok có làm thực nghiệm đâu, các bài báo từ làm thực nghiệm cho đến biết bài đều do mấy chú sv viết hết, hoặc master, hoặc doctorat hoặc PostDoc, nên mấy bro gửi cho người tên đầu tiên đóa, đó mới là người trực tiếp làm thực nghiệm. GS đưa ý tưởng với sửa bài viết, mà mấy ổng lo sửa nhiều bài lắm, làm sao mà chi tiết được. GS thì cũng là người thôi à, hok tin thì coi thử ông xếp của tui nè Daniel DUPREZ, quá trời bài, mỗi bài là mỗi mảng khác hoắc nhau Thân

Mình xin nêu một số quan điểm riêng như sau:

Một trường hợp nữa là do các bạn đang tìm hiểu project quá cũ của Prof í, nên thật khó để remind lại những gì mình làm trong 5-10 năm trước :xuong ( Nhất là các group manager chỉ định hướng, còn technique thế nào thì đã có các researcher member trong group đảm nhận.

Khi một Project đã public lên các database article, thì group manager luôn muốn nhận được nhiều comment từ các group khác, nhưng chỉ trong thời gian đang còn quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu đến project đó. Nếu group í ko dính đến các security từ mối hợp tác với các cơ quan, tổ chứ khác, như công ty chẳng hạn … thì việc reply email comment là vô tư.

Là nhà khoa học chân chính thì không nên giấu bất cứ điều gì, cái này tùy ở mổi con người thôi. Các giáo sư mà mình may mắn gặp lúc nào cũng chỉ cho mình rất tường tận thực nghiệm, chậm chí còn hổ trợ trang thiết bị và sách vở cho mình, bàn luận về những project đang làm, nói chung là không giấu thứ gì. Các kiểu giáo sư khác thì mình ít gặp. Công bố kết quả khoa học trên các tạp chí khoa học và bảo mật bí quyết trong kinh doanh, sản xuất là 2 vấn đề khác nhau hoàn toàn, không thể so sánh được.

Cái này ko hoàn toàn chính xác, khoa học theo mình hiểu, chính là sự tò mò, khai phá. Nếu cái gì cũng tung ra từ đầu chí cuối, thậm chí cụ thể như một bài thesis made in VN (nêu cả các technique cơ bản nhất) thì chả kích thích được gì nữa sự tò mò đối với project từ article đó. Bản thân mình rất muốn làm giống protocol trong bài báo, nhưng theo những technique của mình (mặc dù cũng tương tự technique đề nghị của họ). như thế thật thú vị !!!

Không ngờ chủ đề này lại trở thành một trong những “hot topic” được bà con tham gia thảo luận tích cực. Xin cảm ơn mọi người. Nay mình viết tiếp bài này hy vọng sẽ giúp ích cho mọi người có cái nhìn toàn diện hơn! Về việc không nhận được thư hồi âm có thể do những nguyên nhân như một số bạn đã đặt ra, mình them vào vài ý sau:

  • GS chính đã nghỉ hưu nên phải cố gắng liên lạc với đồng tác giả để có thể hỏi xin được gì đấy và chỉ trông chờ vào may mắn.

  • Nên xem xét lại bộ lọc email rác của account. Khi còn đi học, mình phải xin giấy “Study permit” đợi lâu quá không thấy được cấp giấy này, mình phải gọi điện hỏi Sở Di trú. Khi đó họ trả lời là đã email hai lần để nhắc liên lạc vì lúc đó mình chưa có điện thoại. Kiểm tra lại bộ lọc thư rác hóa ra mình để chế độ tự động delete. Các bạn đang dùng email để liên lạc các chuyện quan trọng nên để ý điều này. Và nếu thấy gì bất thường nên gọi điện để kiểm tra chứ đừng quen tâm lý chờ đợi như bà con mình.

  • Nhiều GS coi những thư này là không đáng trả lời để trả lời vì họ cũng rất là bận việc. Thường họ xem dưới email thông tin về bản thân người gửi nếu là Prof, Research Scientist, Postdoc hay ít ra là PhD student họ còn ráng trả lời.

  • E-mail của bạn viết có “nice English” hay không? Bạn đã nhấn mạnh rằng tham khảo phương pháp của họ chỉ nhằm làm ra chất gì đó để tiếp theo làm gí đó hoàn toàn khác với hướng nghiên cứu của họ. Quan trọng nhất là phải nhấn mạnh sẽ trích dẫn những bài báo của họ trong công bố khoa học của mình. Vì nếu làm nghiên cứu càng được trích dẫn nhiều bài báo thì sẽ càng xin được nhiều tài trợ.

Ngoài ra, các bạn cũng nên làm quen với việc không nhận được thư hồi âm. Nếu phải email hỏi xin học bổng cho ĐH, Sau ĐH, postdoc hay việc làm, nhiều khi gửi đi 20 email chỉ nhận được hồi âm một vài email mà thôi. Hic!

Về việc lập lại thí nghiệm không ra và hướng giải quyết:

  • Nếu việc lập lại không thành công là do không có trong tay phần thực nghiệm của tác giả bài báo thì bạn ráng tìm phần thực nghiệm này hoặc tương tự từ những bài báo khác có trích dẫn bài báo gốc. Trong số bài báo trích dẫn đó của tác giả khác thế nào cũng có người mô tả lại thực nghiệm họ đã làm. Nhất là những bài báo công bố gần đây thường yêu cầu phải có phần thực nghiệm đi kèm khi nộp bài báo.

  • Nếu mà đã có phần thực nghiệm của tài liệu tham khảo mà làm vẫn chưa ra thì nên đọc lại thật kỹ từng câu, từng dấu chấm và dấu phẩy để xem mình đã lặp lại y chang bài báo chưa? Có dùng cùng loại hóa chất (tác chất, xúc tác, dung môi, khí argon hay nitrogen), dụng cụ phải sấy bằng tủ sấy ở nhiệt độ nào hay phải sấy bằng ngọn lửa gas (flame dry), lượng hóa chất sử dụng có đúng y như bài báo chưa … Nên tránh suy nghĩ tiêu cực: “Tác giả bài báo đã giấu nghề hay bỏ bớt cái gì đó trong bài báo”. Có lẽ lúc đó bạn chưa đủ kinh nghiệm để lập lại phản ứng. Thường khi lập lại TN từ literature kinh nghiệm đóng vai trò rất quan trọng, thường mình được hiệu suất cao hơn trong 70% số trường hợp, 15% trường hợp giống như tác giả còn lại 15% thì không được như tác giả thường rơi vào các bài báo tinh chế sản phẩm bằng chưng cất phân đoạn ở áp suất kém hoặc không dùng đúng lượng tác chất. Cho đến lúc này mình chưa bao giờ thất bại trong việc lập lại phản ứng từ literature. Mình sẽ nói thêm về điều này ngay dưới đây từ kinh nghiệm thực tế bản thân.

  • Hồi trước, mình phải lập lại một thí nghiệm vòng hóa với xúc tác TiCl4 nguyên chất và dung môi dioxane khan nước. Sau 10 lần lập lại TN này không thành công với đủ loại xúc tác TiCl4 , mình có email hỏi tác giả và được trả lời rất tận tình về điều kiện TN và đúng y như trong bài báo đã công bố. Tức quá mình mới đặt mua nguyên chai TiCl4 mới và dioxane khan mới từ Aldrich, và làm khan tác chất alcol bằng cách cô quay với toluene đã loại toàn bộ vết nước nếu có, rồi làm khan trên bơm chân không hai ngày. Thế là lần lập lại thứ 12 cho kết quả tốt đẹp. Sau đó lần nào lập lại cũng ra. Khi mình viết thư cảm ơn, ông GS đó trả lời rất mừng là mình đã thành công trong việc lập lại TN của ông ấy. Vì điều đó khẳng định công bố nghiên cứu của ông là đúng sự thật không phải giả tạo!

  • Lần khác đóng vòng một diol với dẫn xuất dihalogen để tạo hợp chất vòng lớn tương tư ether crown nhưng chưa ai làm qua.Trước đó thử với các dung môi khác như THF, dioxane và DMSO đều không cho ra sản phẩm. Sau đó với điều kiện NaH trong DMF, mình đã thành công trong việc điều chế ether vòng lớn này, chứng minh đầy đủ bằng phổ IR, NMR, MS và HRMS. Và thật bất ngờ lân đầu tiên cũng là lần cuối cùng, sau đó không bao giờ mình lập lại được nữa. Sau đó phải đổi sang điều kiện khác dùng KOH trong dioxane khan lại ra sản phẩm trở lại và rất dễ lập lại TN, lần nào làm cũng ra. Phổ các loại của mẫu dùng KOH/dioxane chồng khít lên mẫu thu được bằng điều kiện NaH/DMF. Nên khi đăng bài báo mình chỉ để điều kiện với KOH/dioxane chứ không dám để điều kiện NaH/DMF vì sợ có người làm không ra cho là mình xạo hay giấu nghề.

  • Trong hai tuần qua, mình cũng vừa gặp khó khăn trong việc lập lại một thí nghiệm của chính mình và chưa từng ai làm qua phản ứng này. Đó là TN để điều chế các nucleoside có hoạt tính dược học bằng phản ứng ghép cặp (coupling reaction). Lần 1,2 và 3, đều không làm ra sản phẩm. Lần 4 với lượng tác chất sử dụng 60 mg và lượng xúc tác 30 microlit cho hiệu suất 30%. Lần 5, lượng tác chất 100 mg và xúc tác cao tương ứng, hiệu suất phản ứng 0%. Lần 6, lượng tác chất 120 mg và 60 microlit, hiệu suất 0%. Lần 7, sử dụng 70 mg tác chất và lượng xúc tác tương ứng, hiệu suất 15%, sản phẩm thu được còn ít hơn bắt đầu với 60 mg. Lần 8, trở lại 60 mg và lượng xúc tá 30 microlit, hiệu suất lại thu được 30%. Lần 9, vẫn sử dụng 60 mg và lượng xúc tác 12 microlit, hiệu suất tăng lên 55%. Nên một số phản ứng phải dùng đúng lượng tác chất và xúc tác mới cho hiệu suất cao. Nhiều phải ứng phải làm với lượng rất nhỏ, không được làm lượng lớn.

  • Lần khác dùng phản ứng ghép cặp với xúc tác PTSA (p-toluenesulfonic acid), tác giả bài báo dùng lượng tác chất 30 gam, thu được hiệu suất là 50%. Ví tác chất này khá đắt tiến, $385/ 1 gam. Nên khi lập lại, mình chỉ dùng lượng tác chất là 0.3 gam và sau nhiều lần lập lại chỉ thu được hiệu suất cao nhất là 35%. Phản ứng này đòi hỏi phải dùng lượng lớn tác chất. Sau khi đổi sang dùng xúc tác khác, hiệu suất được tăng lên đến 75%. Ông boss mừng lắm vì nguyên liệu đầu quá đắt mà hiệu suất tăng lên mấy chục phần trăm là việc hết sức có ý nghĩa. Tóm lại việc lập lại phản ứng dù từ literature hay của chính mình, nhiều khi không dễ dàng chút nào. Thường đòi hỏi sự kiên trì, sự quan sát và suy nghĩ của người làm TN. May mắn thường chỉ đến sau khi đã cố gắng chứ ít khi đến dễ dàng. Nếu không có điều kiện để lập lại thực nghiệm của tài liệu tham khảo thì nên nghĩ đến phương pháp khác.

Là nhà khoa học chân chính thì không nên giấu bất cứ điều gì, cái này tùy ở mổi con người thôi. Các giáo sư mà mình may mắn gặp lúc nào cũng chỉ cho mình rất tường tận thực nghiệm, chậm chí còn hổ trợ trang thiết bị và sách vở cho mình, bàn luận về những project đang làm, nói chung là không giấu thứ gì. Các kiểu giáo sư khác thì mình ít gặp. Công bố kết quả khoa học trên các tạp chí khoa học và bảo mật bí quyết trong kinh doanh, sản xuất là 2 vấn đề khác nhau hoàn toàn, không thể so sánh được.

Đó là vì bạn đang làm những đề tài được phép công bố. Việc làm nghiên cứu cho công ty có những dạng sau: được phép công bố tự do hay chậm sau vài tháng hay vài năm; được phép công bố một phần; hoặc giữ bí mật hoàn toàn đến khi cấp patent.

Khi vừa đặt chân vào lab để làm do công ty tài trợ là GS đã bảo là bây giờ: “Cậu phải ký vào hợp đồng cam kết bảo mật do luật sư soạn ra! Nếu cậu không ký vào thì chúng tôi sẽ không nhận cậu vào làm nghiên cứu!” Thậm chí sau này đi làm chỗ khác mình cũng không được đụng trực làm liên quan đến những sản phẩm đã làm ra. Nói chung, việc bảo mật đôi lúc là điều đương nhiên, các bạn cũng nên làm quen dần và đừng sốc. Không nên đánh đồng việc bảo mật với vấn đề đạo đức.

Ví dụ đề tài của mình đang làm hợp tác với công ty dược. Để làm ra mỗi sản phẩm tổng hợp 6-10 bước, chi phí cho công lao động, phân tích mẫu, hóa chất, dụng cụ, … sẽ mất ít nhất khoảng $4000-6000. Phần thử nghiệm sơ bộ hoạt tính sinh học ở phase I và II cũng mất số tiền ít nhất là tương đương bên tổng hợp hoặc nhiều hơn. Chưa tính phần phase III và IV thường do công ty đảm nhận.Trong mấy chục sản phẩm tổng hợp được, không biết có được đến một sản phẩm thương mại hóa sau 10-20 năm hay không nữa. Chắc các bạn cũng có nghe để tổng hợp một sản phẩm, rồi thử hoạt tính sinh học qua 4 giai đoạn (phase I, II, III và IV) đến thương mại hóa sản phẩm mất ít nhất 5-10 năm, có trường hợp đến 30 năm. Nếu bạn ở trường hợp như vậy, có ai hỏi điều kiện thí nghiệm của bạn để lập lại hay cải tiến, thì liệu bạn có nên trả lời hay không?

Thậm chí để đi hội nghị toàn quốc sắp tới, ông GS sẽ tài trợ toàn bộ chi phí cho mình di dự hội nghị toàn quốc vào tháng sau. Mình có thể báo cáo bất cứ đề tài gì đã làm ở bất cứ nơi nào trong lúc học hay làm việc hoặc chỉ đi chơi cũng được. Tuyệt đối không được báo cáo đề tài đang làm với tài trợ của công ty mặc dù kết quả rất tốt.

Bác Scooby-doo có những kinh nghiệm thực tế thật thú vị. Về những đề tài đã công bố thì mình vẫn cho rằng không nên dấu bất cứ điều gì (Việt Nam mình thường gọi là dấu nghề) vì nó khẳng định tinh thần khoa học của tác giả, giúp người khác dể tái lập thực nghiệm… Tuy nhiên các bài báo thường rất ngắn gọn nên nhiều khi không thể mô tả chi tiết hết được, cho nên nhiều khi làm thí nghiệm vật vã mà không ra đôi khi chỉ vì một vài yếu tố nhỏ mà mình không biết. Bác Scooby-doo đang làm postdoc nên được ông giáo sư nào đó viết mail chỉ bảo tận tình thực nghiệm là phải đạo rồi, phải nói là cảm giác lúc đó thật tuyệt vời phải không. Nếu bác đang làm về tổng hợp dược, sau này hy vọng về giúp nước nhà phát triển nghành dược chứ bây giờ Việt Nam tổng hợp dược yếu quá. Những nghiên cứu thuộc thể loại không thể công bố nếu không được phép của sponsor hay thuộc loại bí mật quốc gia.v.v. thì nhiều khi nhà khoa học cũng không thể công bố kết quả dù kết quả đó có lợi cho cộng đồng (hay việc không công bố kết quả có hại cho cộng đồng). Cái này thì khỏi nói rồi, phải chấp nhận luật chơi, không thì…tiêu. Những đề tài được phép công bố nhưng chưa publish cũng thường được giữ bí mật vì đây là sự cạnh tranh lành mạnh mà.

  • Nếu chưa có kinh nghiệm lập lại TN từ TLTK thường sẽ khó khăn. Để tránh tình trạng này nên trao đổi với GS hướng dẫn hoặc bất cứ ai ta có thể túm được để tránh mất thời gian và hóa chất.

Scooby-doo đang làm postdoc nên được ông giáo sư nào đó viết mail chỉ bảo tận tình thực nghiệm là phải đạo rồi, phải nói là cảm giác lúc đó thật tuyệt vời phải không.

  • Lúc email cho GS để hỏi điều kiện TN mình mới chỉ vào làm PhD student mà thôi nhưng trong cái email mình nhớ là phải khen ông đó có hướng nghiên cứu hay, v.v. rồi mới nhờ chỉ giúp và quan trọng là mình sẽ làm chuyện khác hoàn toàn không cạnh tranh với ông ấy. Cuối mail phải chúc ông ấy thành công ngày càng nhiều trong nghiên cứu…rồi phải cám ơn rối rít. Chứ không dễ gì mà được trả lời. Các bạn cần viết thư hỏi xin gì đấy nên viết “nice” một chút sẽ có hy vọng hồi âm nhiều hơn.

Nếu bác đang làm về tổng hợp dược, sau này hy vọng về giúp nước nhà phát triển nghành dược chứ bây giờ Việt Nam tổng hợp dược yếu quá.

  • Mình làm cho đến lúc này đủ thứ hướng. Có những hướng chẳng liên quan tí gì tới nhau cả Chỉ mới hướng vào total synthesis và tổng hợp dược hai năm nay thôi. Đang hy vọng ở miền Nam có cái máy NMR và HRMS để có thể làm tổng hợp. Chứ một mẫu phổ 1H NMR mất 10 ngày còn làm được gì nữa. Mà sao giá chạy phổ ở VN đắt quá! mấy em SV làm đề tài chắc cũng mệt mỏi vì các chi phí phân tích này.

Mình có vài ý kiến về việc công bố hay không các project của bản thân. Việc viết và đăng đề tài của mình như thế nào cảm giác đấy là “lương tâm” và tính cách của người làm khoa học. Tuy nhiên qua 1 bài báo hay 1 báo cáo thì quả thật không thể trình bày mãn nhãn người đọc, huống hồ trong tổng hợp hữu cơ nói riêng thì khác biệt nhỏ đã đi cả dặm, mà nhiều phản ứng sự thành bại, quan trọng là cái “tiểu xảo” trong làm thí nghiệm , mà đấy làm nên sự khác biệt . Trong bài báo hay báo cáo thì đâu thể trình bày những phần như thế, vì vậy việc làm theo các bái báo gặp khó khăn cũng 1 phần vì thế. Còn việc viết các bài báo như thế nào, việc “dấu nghề” “bí mật” sao cho hợp lý. Ở Việt Nam Có GS vì đề tài chưa được nghiệm thu, nên không thể công bố chi tiết thực nghiệm, khi viết bài không cho thực nghiệm vào. Khi liên hệ với Nhóm của GS thì nhận được sự im lặng, đấy cũng là điều phải chấp nhận. Có vị P.GS muốn độc quyền ở VN mảng biến tính Đường, thế là trong tất cả các bài báo đều thay đổi các thông số điều kiện phản ứng, đến lúc thành viên kế sau trong nhóm ko kịp ghi chép thế là thất lạc điều kiện và các nhóm đi sau tiếp tục mò mẫm , tốn kém.(:chuiboi (:bepdi(:bepdi( Có GS thì không trình bày phổ biến thực nghiệm , nhưng các bạn quan tâm thì thầy trả lời rất nhiệt tình thậm chí có hôm 11h tối mới ở nhà thầy về.:hun ( Thế nên việc viết bài rất quan trọng, Nếu bạn không tiện công bố “bí kíp” thì có thể không nêu nhưng tuyệt nhiên không chỉnh sửa viết sai, viết khác với những thực nghiệm bạn làm. Thân.

Đây là email em gửi cho ông giáo sư đó, tên của ổng đặt ngay đầu bài nên em nghĩ là đích thân ổng làm, những bài báo sau đó thì cũng là tên ổng ở đầu, chỉ có 1 bài duy nhất ổng để tên sau cùng và đó cũng là bài em lấy được email và biography của ổng.

http://www.dfmg.com.tw/liture/china/���ӤƤu/990401.htm

Lần đầu tiên em làm mô phỏng lại thí nghiệm của bài báo này thì “vô cùng ngạc nhiên” vì làm khá dễ dàng và hiệu suất cao hơn hẳn bài báo 92% so với 72% báo cáo, sau đó làm lại thì kết quả cũng tương tự. Có 1 vấn đề trước khi làm thực nghiệm em băn khoăn là “run tay”, vì lần đầu tiên làm những thí nghiệm “lạ hoắc” mà không có kiến thức safety trong tay, quăng natrium vô methanol mà không có cách gì biết trước được nó sẽ diễn ra như thế nào, chỉ biết trước đây quăng natrium vào nước thì cháy nổ khí thế, mà phòng thí nghiệm hữu cơ thì hơi dung môi bay đầy nên chỉ cần 1 mồi lửa là giải tán cả phòng, nên quả thực lúc đó rất run, chuẩn bị cả tuần mà vẫn chưa dám làm, cũng không dám hỏi thầy hướng dẫn vì ai đời lại đi nhờ thầy làm thí nghiệm giùm vì run tay và vì nhát gan, may mà thầy nice quá nên cuối cùng cũng ổn, và cũng nhờ lần thị phạm đó mà những lần sau mình tự tin hẳn lên. 1 yếu tố cũng quan trọng nữa nếu làm tổng hợp hữu cơ, đó là càng làm nhiều thí nghiệm càng tốt, như thầy Scoopy Doo đã nói, khi làm khoảng 100 phản ứng thì tự nhiên có kinh nghiệm, khi đọc câu này thì mình tự hỏi không biết làm sao làm được 100 phản ứng, dù trước đó có học thực tập và tự làm những thí nghiệm nhỏ, nhưng đều không thấm thía gì so với những gì mình phải sắp làm, vì thực tập chỉ mang tính basic và practie chứ khôn cho expriment nhiều, sau đó thì mình kiếm được vài cái phần mềm mô phỏng những phản ứng trong phòng thí nghiệm, có những phần mềm đơn giản, nhưng cũng có những phần mềm về hữu cơ mô phỏng sát thực tế thí nghiệm, nghĩa là nếu phản ứng đó làm trong 24 giờ, thì bạn cũng phải mở máy tính chạy đủ 24 giờ, sau đó mới có sản phẩm, sau khi làm xong cái này thì mới dập tắt được tính nôn nóng và nghĩ rằng hóa học là phản ứng ra sản phẩm liền liền trong cách suy nghĩ của bản thân mình, và cũng từ đó bạn học thêm rất nhiều như cách bố trí hóa chất và thiết bị trong PTN, cách chuẩn bị 1 thí nghiệm, cách suy nghĩ, viết report, idea như thế nào, và thực tế ra sao.